TẦM QUAN TRỌNG CỦA BẰNG CHỨNG: THỰC, ẢO VÀ BIỂN ĐÔNG

Tác giả: Bill Hayton 

Biên dịch: Bùi Thạch Hồng Hưng

Hiệu đính: Minh Trang

Chỉ trong một vài tuần nữa, các thẩm phán quốc tế sẽ bắt đầu xem xét tính pháp lý của “Đường chữ U” mà Trung Quốc đã tuyên bố trên Biển Đông. Tòa thụ án sẽ là Tòa trọng tài thường trực La Haye (PCA). Và bước đầu tiên của tòa – trong suốt những cuộc thảo luận vào tháng bảy – là cân nhắc xem Tòa có nhận vụ kiện này hay không.[1]

Hy vọng lớn nhất của Trung Quốc là các thẩm phán sẽ phán quyết họ không có thẩm quyền thụ lý vụ kiện. Bởi vì, nếu ngược lại, và vụ kiện của Philippines vẫn được tiếp tục, nhiều khả năng Trung Quốc sẽ phải hứng chịu một sự mất mặt lớn.

Philipines muốn Tòa phán quyết rằng, theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS), Trung Quốc chỉ có thể tuyên bố chủ quyền cũng như có quyền đối với các nguồn tài nguyên tại vùng biển có khoảng cách nhất định với đất liền[2]. Nếu Tòa đồng ý, điều này đồng nghĩa với việc thu hẹp “đường chín đoạn” xuống thành vài vòng tròn có đường kính không vượt quá 24 hải lý (khoảng 50km).

Trung Quốc không chính thức tham gia vụ kiện nhưng nước này đã gửi những lập luận của mình một cách gián tiếp, đặc biệt là thông qua một “bản tuyên bố lập trường” (Position Paper) được đưa ra vào tháng 12 vừa qua[3]. Bản tuyên bố lập luận rằng toà không nên thụ lý vụ kiện của Philippines cho đến khi một tòa khác đưa ra phán quyết về tất cả những tuyên bố chủ quyền trên các đảo, đá và đá ngầm. Đây là vấn đề mà các thẩm phán cần xem xét đầu tiên.

Chiến lược của Trung Quốc trong “cuộc chiến pháp lý” trên Biển Đông là triển khai những lập luận mang tính lịch sử nhằm né tránh những lập luận dựa theo UNCLOS. Trung Quốc dường như ngày càng xem UNCLOS không phải là một công cụ trung lập để giải quyết tranh chấp mà là vũ khí có tính thiên vị được các quốc gia khác vận dụng nhằm phủ nhận quyền tự nhiên của Trung Quốc.

Nhưng có một vấn đề lớn đối với Trung Quốc khi sử dụng những luận điểm mang tính lịch sử. Đó là sự khan hiếm bằng chứng.

Đây không phải là ấn tượng mà độc giả thông thường sẽ nhận được khi đọc hầu hết các bài viết của các nhà báo hoặc báo cáo của giới học giả viết về các tranh chấp trên Biển Đông trong những năm gần đây. Bởi vì, hầu hết các bài viết và các báo cáo đều tạo dựng khung lịch sử trên một số lượng ít ỏi bài viết và sách. Đáng lo ngại rằng, một cuộc kiểm tra chi tiết những ấn phẩm này cho thấy rằng các tác giả đã sử dụng những nguồn không đáng tin để viết nên (tài liệu) lịch sử đáng tin cậy.

Điều này là một trở ngại đáng kể trong việc giải quyết các tranh chấp bởi vì việc hiểu sai các bằng chứng lịch sử của Trung Quốc là yếu tố bất ổn lớn nhất cho sự căng thẳng hiện tại. Sau nhiều thập kỷ của nền giáo dục lệch lạc, người dân Trung Quốc cũng như giới lãnh đạo dường như đã bị thuyết phục rằng Trung Quốc là người sở hữu hợp pháp mọi thực thể trên biển – và có thể cả toàn bộ vùng nước ở giữa. Quan điểm này đơn giản không được hỗ trợ bởi các bằng chứng từ thế kỷ 20.

Ai điều khiển quá khứ sẽ kiểm soát tương lai

Vấn đề của khu vực là việc giáo dục lệch lạc không chỉ giới hạn ở Trung Quốc. Những bằng chứng thiếu tin cậy bao phủ những buổi thảo luận quốc tế về các tranh chấp Biển Đông. Nó làm sai lệch các đánh giá về các tranh chấp ở cấp độ chính phủ – kể cả ở Đông Nam Á hay ở Mỹ. Tôi sẽ sử dụng ba ấn phẩm gần đây để chứng minh cho luận điểm của mình: hai bài viết “bình luận” của Viện Nghiên cứu Quốc tế thuộc trường Rajaratnam tại Singapore được thực hiện bởi học giả Trung Quốc Li Dexia và học giả người Singapore Tan Keng Tat[4], một bài diễn văn năm 2015 của cựu Phó Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc, Charles Freeman tại Đại học Brown[5] và một báo cáo năm 2014 của Trung tâm Phân tích Hải quân có trụ sở tại Hoa Kỳ[6].

Điểm nổi bật của các công trình này – và chúng chỉ là đại diện cho một nguồn tài liệu lớn hơn nhiều – là sự phụ thuộc vào tài liệu lịch sử được xuất bản nhiều năm trước, bao gồm: một số lượng lớn được xuất bản trong những năm 1970, nổi bật là các bài viết của Hungdah Chiu và Choon-Ho Park[7]; Quyển Contest for the South China Sea (Tranh luận Biển Đông) xuất bản năm 1982 của Marwyn Samuels[8]; China’s Ocean Frontier (Biên giới trên biển của Trung Quốc) của Greg Austin xuất bản năm 1998[9] và hai bài viết của Jianmeng Sheng lần lượt được xuất bản vào năm 1997[10] và 2002[11].

Những ấn phẩm này đã trở thành một dạng kiến thức chung về tranh chấp Biển Đông. Công cụ Google Scholar ước tính rằng các bài viết của Chiu và Park được trích dẫn 73 lần, sách của Samuels được trích dẫn 143 lần. Các công trình sử dụng trích dẫn của các tác giả trên bao gồm Brian Murphy năm 1994[12], Jianming Sheng trích dẫn trong bài viết năm 1997 và 2002 – những bài viết này, lại được trích dẫn 34 và 35 lần bởi những người khác, trong đó có Chi-kin Lo[13]. Quyển sách xuất bản năm 1989 của Chi-kin Lo lại được trích dẫn 111 lần bởi các công trình khác. Lo đã dựa trên quyển sách của Samuels cho những giải thích lịch sử của mình và thực sự đã ca ngợi ông vì đã “xử lý tỉ mỉ các dữ liệu lịch sử” (trang 16)[14]. Đô đốc (đã về hưu) Michael McDevitt, người viết lời phi lộ cho nghiên cứu của Trung tâm Phân tích Hải quân Hoa Kỳ, ghi nhận rằng quyển Contest for the South China Sea “vẫn có thể đứng vững sau 40 năm[15].

Những công trình trên là những nỗ lực đầu tiên mong muốn giải thích nguồn gốc lịch sử tranh chấp cho đọc giả nói tiếng Anh. Chúng chia sẽ những đặc điểm chung sau:

– Được viết bởi các chuyên gia luật quốc tế hoặc khoa học chính trị hơn là các nhà sử học nghiên cứu lịch sử hàng hải khu vực.

– Thường thiếu nguồn cho tài liệu tham khảo gốc.

– Có xu hướng dựa trên nguồn của truyền thông Trung Quốc vốn thiếu nguồn cho các chứng cứ gốc hoặc những công trình trích dẫn những nguồn này.

– Có xu hướng trích dẫn những bài viết trên báo chí nhiều năm sau sự kiện nhưng coi như bằng chứng thật.

– Thường thiếu thông tin về bối cảnh lịch sử.

– Được viết bởi các tác giả có quan hệ mật thiết với Trung Quốc

Những công trình ban đầu về tranh chấp

Những công trình tiếng Anh về tranh chấp Biển Đông nổi lên như một hệ quả tức thì của “Hải chiến Hoàng Sa” tháng 1/1974, khi lực lượng Quân đội nhân dân Trung Hoa đẩy lực lượng quân đội Việt Nam Cộng Hòa (Miền Nam Việt Nam) khỏi phần phía Tây của quần đảo.

Những bài phân tích đầu tiên xuất hiện trong lĩnh vực báo chí, bao gồm một bài của Cheng Huan, một sinh viên luật Malaysia ở London, người hiện nay đã trở thành một chuyên viên luật cao cấp ở Hongkong. Bài viết được đăng trên ấn phẩm tháng của tạp chí Kinh tế Viễn Đông (Far Eastern Economic Review)[16]. Trong bài viết, ông ta nhận xét rằng “Tuyên bố chủ quyền lịch sử của Trung Quốc [đối với quần đảo Hoàng Sa] mang đầy đủ chứng cứ và được ghi chép trong lịch sử từ thời xa xưa, rằng các quốc gia khác gần như không thể đưa ra tuyên bố chủ quyền phản đối”. Lời nhận xét của một anh chàng sinh viên non trẻ đã được Chi-Kin Lo trích dẫn lại trong quyển China’s Policy Towards Territorial Dispute (Chính sách của Trung Quốc về các vấn đề tranh chấp chủ quyền) năm 1989[17].

Những nghiên cứu học thuật đầu tiên xuất hiện trong năm tiếp theo, bao gồm nghiên cứu của Tao Cheng[18] cho tạp chí Luật Quốc tế Texas (Texas International Law Journal)[19] và một nghiên cứu khác của Hungdah Chiu và Choon-Ho Park cho Tạp chí Luật Quốc tế và Phát triển Biển (Ocean Development & International Law)[20]. Trong năm kế tiếp, Viện nghiên cứu châu Á Hamburg đã xuất bản một chuyên khảo bởi học giả Đức Dieter Heinzig[21].

Nghiên cứu của Cheng[22] chủ yếu dựa trên những nguồn của Trung Quốc cùng với thông tin của truyền thông Mỹ. Những nguồn Trung Quốc chủ yếu từ các tạp chí thương mại, bao gồm những ấn phẩm của những năm năm 1930 của tờ báo Ngoại giao bình luận (Wai Jiao Ping Lun [Foreign Affairs Review]) vốn có trụ ở Thượng Hải từ năm 1933 đến 1934 và Tân Á Tế Á nguyệt san (Xin Ya Xiya yue kan [New Asia Monthly]) từ năm 1935. Các nguồn này được bổ sung thông tin từ tạp chí tin tức Minh báo nguyệt san (Ming Pao Monthly) có trụ sở ở Hongkong từ năm 1973 đến 1974[23]. Các báo khác được trích dẫn bao gồm Quốc văn chu báo (Kuo Wen Chou Pao [National News Weekly]), được xuất bản tại Thượng Hải từ 1924 đến 1937, Nhân dân nhật báo (Renmin Ribao [People Daily]) và New York Times. Cheng không sử dụng các nguồn tiếng Pháp, tiếng Việt hoặc Philippines, ngoại trừ bài viết năm 1933 từ La Geographie (Địa lý) vốn đã được dịch và đăng lại trên tờ Ngoại giao bình luận.[24]

Nghiên cứu của Hungdah Chiu và Choon-Ho Park[25] cũng dựa trên những nguồn tương tự. Trong những phần quan trọng, công trình đã sử dụng dẫn chứng từ các bài báo được xuất bản năm 1933 trên Ngoại giao bình luậnNgoại giao nguyệt báo (Wai Jiao Yue Bao), và Phương chí nguyệt san (Fan-chih yueh-k’an [Geography Monthly]) từ năm 1934 cũng như Quốc văn chu báo từ năm 1933 và tài liệu từ chính chính phủ Trung Quốc là Ngoại giao bộ công báo (Wai-chiao-pu kung-pao [Gazette of the Ministry of Foreign Affairs]). Các nguồn thông tin hỗ trợ được thu nhặt từ ấn phẩm được xuất bản tại Thượng Hải năm 1948 của Cheng Tzu-yueh mang tên Nam hải chư đảo địa lý chí lược (Nan-hai chu-tao ti-li chih-lueh) và các tuyên bố của chính phủ Trung Quốc từng 1956 đến 1974.

Chiu và Park cũng sử dụng một vài tư liệu Việt Nam, đáng chú ý là tám trang thông cáo báo chí hay tờ thông tin của Đại sứ quán của Việt Nam Cộng hòa ở Washington. Họ cũng sử dụng một vài “dữ liệu chưa được công bố thuộc quyền sở hữu của tác giả”. Tuy nhiên, hầu hết các nguồn tư liệu đều từ truyền thông Trung Quốc.

Tiến hành viết một năm sau đó, Dieter Heinzig[26] dựa phần lớn các ấn phẩm của hai tờ tạp chí có trụ sở ở Hongkong là Thất thập niên đại (Ch’i-shih nien-tai [Seventies Monthly]) và Minh báo nguyệt san được xuất bản lần lượt vào tháng ba và tháng năm 1974[27].

Điều đáng quan tâm là tất cả những bài viết mang tính nền tảng này đã sử dụng nguồn dữ liệu cơ sở từ các bài viết của truyền thông Trung Quốc được xuất bản trong giai đoạn mà những tranh luận về Biển Đông bị chính trị hóa sâu sắc. Năm 1933 là năm Pháp chính thức sát nhập các thực thể trong quần đảo Trường Sa (vào sự quản lý của mình – NHĐ)[28], khích động sự giận dữ lan rộng của Trung Quốc[29]. 1956 là năm doanh nhân Philippine Tomas Cloma tuyên bố hầu hết quần đảo Trường Sa thuộc về quốc gia độc lập tự phong “Freedomland” của mình[30], khích động hàng loạt tuyên bố của Trung Hoa Dân quốc, Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa và Việt Nam Cộng hòa; Và 1974 là năm xảy ra trận chiến Hoàng Sa.

Pháp tuyên bố sáp nhập 7 cụm đảo thuộc quần đảo Trường Sa trên Journal Officiel de la République Française 25/7/1933 (Nguồn ảnh từ tác giả)

Pháp tuyên bố sáp nhập 7 cụm đảo thuộc quần đảo Trường Sa trên Journal Officiel de la République Française 25/7/1933 (Nguồn ảnh từ tác giả)

Những bài báo được xuất bản trong ba giai đoạn này không được đánh giá là khánh quan và thiếu những nguồn dẫn chứng thật sự. Hơn thế, họ được xem là những người ủng hộ quan điểm của các quốc gia cụ thể. Điều này không đồng nghĩa với việc họ không đúng nhưng cần thận trọng trong việc làm rõ những tuyên bố dựa trên những nguồn cơ sở. Đây không phải là những điều các tác giả đã làm.

Vết xe đổ của Cheng, Chiu và Park cũng như Heinzig sau đó được Marwyn Samuels lặp lại trong quyển sách Tranh luận biển Đông. Bản thân Samuels cũng nhận biết được sự thiên vị các nguồn Trung Quốc trong phần Mở đầu của quyển sách, khi ông khẳng định “đây không phải là nghiên cứu chủ yếu về lịch sử biển, chính sách biển hay các lợi ích ở Biển Đông của Việt Nam hay Philippines. Mặc khác, thậm chí với những tuyên bố, tuyên bố phản đối trong suốt thời gian dài, vấn đề quan tâm ở đây là sự thay đổi trong chính sách biển của Trung Quốc.” Tựu trung, Samuels nhận thức rằng nghiên cứu châu Á của tác giả chỉ tập trung vào kho lưu trữ của Đài Loan. Tuy nhiên, hồ sơ ghi nhận các hành động liên quan của Trung Hoa Dân quốc tại biển Đông ở đầu thế kỷ 20 chỉ được giải mã vào năm 2008/09[31], rất lâu sau khi công trình nghiên cứu của tác giả được xuất bản.

Xu hướng viết về lịch sử bùng nổ một lần nữa vào cuối thập niên 90. Cựu nhân viên của Bộ địa chất Hoa Kỳ, người hiện là chuyên viên tư vấn dầu mỏ, Daniel Dzuek đã viết một bài cho Đơn vị nghiên cứu về Biên giới quốc tế của Đại học Durham vào năm 1996[32]. Ngoài ra, nhà phân tích Úc Greg Austin cũng xuất bản một cuốn sách vào năm 1998[33]. Các phần nghiên cứu về lịch sử trong quyển sách của Austin tham khảo sách của Samuel, các bài viết của Chiu và Park cũng như các văn bản được ban hành bởi Bộ Ngoại giao Trung Quốc vào tháng 1/1980 với tiêu đề “Chủ quyền không tranh cãi của Trung Quốc trên đảo Tây Sa và Nam Sa” (China’s indisputable sovereignty over the Xisha and Nansha islands)[34] và một bài viết của Lin Jinzhi trên tờ Nhân dân nhật báo.[35] Các bài viết của Dzurek cũng tương tự như thế.

Người đóng góp quan trọng tiếp theo cho các bài tường thuật là một Giáo sư luật người Mỹ gốc Trung thuộc Đại học Luật St. John ở New York, Jianming Sheng. Năm 1997, ông đã cho xuất bản một bài xã luận trong tạp chí Luật Quốc tế và Luật Cạnh tranh Hasting (Hasting International và Comparative Law Review)[36]. Tương tự như Tạp chí Luật Quốc tế Texas, Tạp chí Luật Quốc tế và Luật Cạnh tranh Hasting là một ấn phẩm của sinh viên. Với ban biên tập là những sinh viên luật, các công trình về lịch sử hàng hải Châu Á có khả năng không được giám sát tốt nhất. Bài xã luận tiếp theo của Sheng xuất hiện trên một tờ báo uy tín hơn – tạp chí Luật Quốc tế Trung Hoa (Chinese Journal of Internaional Law)[37], mặc dù rất nhiều phần trong bài xã luận này được lấy từ bài trước đó.

Hai bài xã luận của Sheng đã tạo nên sức ảnh hưởng lớn. Ấn phẩm của Trung tâm Phân tích Hải quân Hoa Kỳ năm 2014[38] đã trích dẫn nó đến 170 lần. Tuy nhiên, việc kiểm tra về các nguồn mà bài xã luận này sử dụng cho thấy chúng không đáng tin cậy. Các chứng cứ lịch sử trong bài viết 1997 chủ yếu dựa vào hai nguồn. Một là từ quyển Luật quốc tế (Guoji Fa) của Duanmu Zheng được phát hành bởi Nhà xuất bản Đại học Bắc Kinh năm 1989 (tham khảo ít nhất 18 lần). Trong năm sau đó, Duanmu trở thành người đứng thứ hai trong các viên chức pháp luật – Phó Chánh án Tòa án tối cao Trung Quốc – và sau này là người dự thảo bộ Luật Hongkong.[39] Nói cách khác, Duanmu là một viên chức chính phủ cấp cao Trung Quốc. Nguồn tư liệu lịch sử thứ hai mà Sheng sử dụng chính là tập hợp các bài viết từ Hội thảo về các quần đảo trên Biển Đông được Viện nghiên cứu chiến lược phát triển hải dương (the Institute for Marine Development Strategy) – một bộ phận của Cục hải dương Trung Quốc (Chinese State Oceanic Administration) – tổ chức năm 1992 (tham khảo ít nhất 11 lần). Mỉa mai thay khi các tư liệu được sản xuất bởi Cục Hải dương và các cơ sở pháp lý khác của Trung Quốc được xử lý thông qua các tác phẩm của giáo sư Sheng và sau này là Trung tâm phân tích hải quân đã trở thành một phần trong cách hiểu của Lầu Năm góc đối với các vấn đề về lịch sử Biển Đông.

Không một ai trong các tác giả này là chuyên gia về lịch sử hàng hải ở Biển Đông. Thay vào đó, họ đều là những nhà khoa học chính trị (Cheng và Samuels), luật sư (Chiu, Park và Sheng), hoặc các chuyên gia về quan hệ quốc tế (Heinzig và Austin). Theo đó, các tác phẩm của họ không kiểm tra tính toàn vẹn của văn bản mà họ trích dẫn cũng như thảo luận về bối cảnh của công trình nghiên cứu. Đặc biệt, Cheng, Chiu và Park đã hợp nhất các khái niệm lỗi thời như “đất nước” trong việc miêu tả các mối quan hệ trong giai đoạn cận-hiện giữa các thực thể chính trị tại Biển Đông – giai đoạn mà các mối quan hệ chính trị hoàn toàn khác so với ngày nay.

Cũng cần lưu ý rằng Cheng, Chiu và Sheng đều là người Trung Quốc. Cả Cheng và Sheng đều tốt nghiệp Đại học Bắc Kinh. Chiu tốt nghiệp Đại học Quốc gia Đài Loan. Có thể nói rằng, việc này mặc nhiên khiến họ có một cái nhìn khá thiên vị khi họ hầu như quen thuộc hơn với các tài liệu và quan điểm của Trung Quốc. Cả Samuels và Heinzig đều là các học giả về Trung Quốc.

Chứng cứ không chuẩn xác

Không có gì ngạc nhiên khi những công trình tiếng Anh đầu tiên về các tranh chấp, được viết bởi những tác giả Trung Quốc và dựa trên những nguồn tin từ Trung Quốc, ủng hộ phía Trung Quốc trong cuộc tranh luận. Cheng đánh giá (trang 277) rằng, “có lẽ là hợp lý khi nói rằng vị thế của Trung Quốc trong vụ tranh chấp các đảo ở Biển Đông là một “tuyên bố vững chắc”[40]. Chiu và Park (trang 20) đã kết luận rằng “Trung Quốc có tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mạnh hơn của Việt Nam”[41]. Quan điểm của Shen thì được thể hiện rõ trên tiêu đề những bài báo của ông, là International Law Rules and Historical Evidence Supporting China’s Title to the South China Sea Islands (Luật pháp quốc tế và chứng cứ lịch sử chứng minh cho quyền sở hữu của Trung Quốc đối với các đảo trên Biển Đông)[42] và China’s Sovereignty over the South China Sea Islands (Chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo trên Biển Đông)[43].

Những nhận định trên vẫn có tầm ảnh hưởng cho đến ngày nay: ví dụ như chúng được trích dẫn trong các bài viết năm 2014 của Li và Tan[44]. Tuy nhiên, việc xem xét kỹ càng hơn các chứng cứ được đưa ra đã cho thấy những sai sót nghiêm trọng. Những bài viết trên tạp chí từ những năm 1993, 1956 và 1974 đó không thể được xem như những bằng chứng trung lập mà chỉ là sự diễn giải phiến diện về một lịch sử gây tranh cãi.

Bài viết này không thể bao hàm tất cả những luận điểm mà các tác giả đưa ra về các sự kiện trước thế kỷ 19. Tóm lại, những đánh giá của Cheng, Chiu và Park, Samuels cũng như Sheng đều có chung một sự giả định rằng Trung Quốc luôn là thế lực hàng hải chiếm ưu thế về mặt hải quân, thương mại và ngư nghiệp ở Biển Đông. Chẳng hạn như Cheng đã nói rằng, “Đó là một phần quan trọng của tuyến hàng hải từ châu Âu đến phương Đông kể từ thế kỷ 16, một thiên đường cho ngư dân của đảo Hải Nam, và là cửa ngõ cho lái buôn từ phía Nam Trung Quốc đến Đông Nam Á kể từ trước đó” (trang 266).

Những kinh nghiệm từ lịch sử của vùng biển này cho thấy vấn đề phức tạp hơn nhiều. Công trình nghiên cứu của các nhà sử học Leonard Blussé, Derek Heng, Pierre-Yves Manguin, Roderich Ptak, Angela Schottenhammer, Li Tana, Nicholas Tarling và Geoff Wade đã chỉ ra những vai trò đa dạng hơn của vùng biển này trong thời kỳ tiền hiện đại. Tàu thuyền và lái buôn Trung Quốc dường như không có vai trò gì trong thương mại hàng hải cho đến thế kỷ 10 và thậm chí sau đó cũng không hề nổi trội mà phải chia sẻ vùng biển với người Mã Lai, Ấn Độ, Ả Rập và châu Âu. Nghiên cứu của François-Xavier Bonnet [45], Ulises Granados[46] và Stein Tonnesson[47] đã cho thấy tình trạng này tồn tại mãi cho đến thế kỷ 20.

Những tư liệu từ đầu thế kỷ 20 đã chứng minh rằng Trung Quốc thậm chí gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý bờ biển của mình, và hoàn toàn không thể hiện được quyền tài phán đối với các đảo cách hàng trăm dặm ngoài khơi. Ví dụ, hai bài viết trên tờ Thời Báo của London từ tháng 1/1908 mô tả sự bất lực của chính quyền Trung Quốc trong việc kiểm soát “tình trạng cướp biển” ở Tây Giang – từ vùng nội địa thuộc Quảng Châu[48]. Một bài viết năm 1909 trên tờ The Examiner của Úc nói rằng những người ngoại quốc (“hai người Đức, một người Nhật, và vài người Mã Lai”) đã tiến hành đào mỏ ở đảo Hải Nam mà không bị chính quyền phát hiện cho tới rất lâu sau đó[49].

Những tư liệu đương thời trên cho thấy vùng Biển Đông về cơ bản đã không được quản lý cho tới giữa thế kỷ 20, ngoại trừ những can thiệp không thường xuyên của các thế lực ngoại quốc chống lại nạn cướp biển. Chỉ đến năm 1909, sau vụ khủng hoảng xung quanh việc chiếm đảo Đông Sa của doanh nghiệp phân bón Nhật Bản Nishazawa Yoshiji, chính quyền Trung Quốc mới trở nên quan tâm hơn đối với những hòn đảo ngoài khơi[50].

Các phản đối chống lại những nghiên cứu đo đạc của người Đức

Tuy nhiên, Samuels (trang 52) lại tranh luận rằng tuyên bố chủ quyền ngầm của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa có thể đã được đưa ra từ năm 1883, khi mà – theo như tính toán của ông – chính quyền nhà Thanh chính thức phản đối một cuộc khảo sát được chính phủ Đức tài trợ tiến hành trên quần đảo Trường Sa. Khẳng định trên xuất phát từ ấn bản tháng 5/1974 của tạp chí Hong Kong Minh báo nguyệt san (Ming Pao Monthly) mà không hề có một chứng cứ xác thực nào khác. Chiu và Park (chú thích trang 47) dẫn nguồn từ một bài viết được phát hành 50 năm sau những sự kiện bị cáo buộc gây tranh cãi trong một ấn bản năm 1933 của Ngoại giao nguyệt san[51]. Heinzig cũng trích dẫn cùng trong ấn bản của Minh báo rằng dựa vào việc cuộc khảo thí 1883 của Đức thực sự bị huỷ bỏ sau phản đối của Trung Quốc.

Tuyên bố này dường như không chắc chắn vì những khảo thí viên người Đức đã vẽ sơ đồ quần đảo Hoàng Sa (không phải quần đảo Trường Sa) giữa năm 1881 và 1883, hoàn thành công việc và sau đó phát hành một hải đồ. Một ấn bản bằng tiếng Pháp được phát hành năm 1885[52].

Công ước Pháp – Thanh 1887

Samuels tranh luận rằng Công ước Pháp – Thanh 1887 được đàm phán bởi chính phủ Pháp, trên danh nghĩa thay mặt Bắc Kỳ, nhằm tiến tới một thoả thuận quốc tế phân chia các đảo cho Trung Quốc (trang 52). Điều 3 của Công ước thực sự phân định các đảo phía Đông kinh tuyến Paris 105°43’ cho Trung Quốc. Nhưng Samuels và các tác giả khác đã không chú ý rằng Công ước chỉ áp dụng cho Bắc Kỳ – khu vực phía Bắc hiện tại thuộc sở hữu của Việt Nam và vì vậy chỉ có thể liên quan tới các đảo thuộc Vịnh Bắc Bộ [53]. Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở rất xa về phía Nam, nơi mà khi đó thuộc địa phận An Nam và Nam Kỳ, không được bao gồm trong Công ước.

Bí ẩn của cuộc hành trình 1902

Dường như có vài sự nhầm lẫn về thời điểm của cuộc viếng thăm đầu tiên của chính quyền Trung Quốc đến quần đảo Hoàng Sa. Samuels (trang 53), căn cứ vào bài viết năm 1974 trên Minh báo Nguyệt san, nói rằng đó là năm 1902, cùng với chuyến viếng thăm đáp lại vào năm 1908. Austin và Dzurek ủng hộ quan điểm này của Samuels.. Li và Tan (2014) cũng khẳng định là 1902, cùng lúc với môt cuộc khảo sát riêng năm 1907. Cheng xác định thời điểm đó là 1907, dựa trên những tài liệu tham khảo năm 1933[54]. Tương tự, Chiu và Park đã tham khảo ấn bản năm 1933 của Quốc văn chu báo (Kuo-wen chou-pao)[55]. Tuy nhiên, trái ngược với những nhận định trên, được viết 26 và 72 năm sau các sự kiện mà họ cho là mô tả một cuộc khảo sát của những tờ báo đương thời đã làm rõ cuộc hành trình đã diễn ra năm 1909.

Có một lí do có thể được chấp nhận cho sự nhầm lẫn về cuộc khảo sát năm 1902. Vào tháng 6 năm 1937, Giám đốc của Khu hành chính số 9 của Trung Quốc, Huang Qiang, được cử thực hiện một nhiệm vụ mật trên quần đảo Hoàng Sa – một phần là để kiểm tra xem có bất kỳ hoạt động nào của người Nhật trên quần đảo.

Nhưng ông còn một vai trò khác – mà một phụ chương bí mật trong báo cáo của ông đã nêu rõ. Một trích đoạn từ phụ chương này đã được phát hành tại Trung Quốc năm 1987 bởi Uỷ ban tỉnh Quảng Đông. Thuyền của ông chứa 30 cột mốc bằng đá – một số viên ghi 1902, số khác ghi 1912 và 1921. Trên đảo Cồn Bắc, họ chôn hai cột mốc từ 1902 và bốn cột mốc từ 1912; trên đảo Lincoln, đội này đã chôn một cốt mốc 1902, một 1912 và một 1921 và trên đảo Phú Lâm, hai cột mốc 1921. Cuối cùng, trên đảo Đá, họ đặt một cột mốc ghi 1912[56].

Những cột mốc bị lãng quên cho đến năm 1974 cho đến sau trận chiến Hoàng Sa, chúng được tìm thấy và “phát hiện” này được công bố trên báo chí Hong Kong – như tờ Minh báo nguyệt san. Cuộc khảo sát không-tồn-tại năm 1902 sau này đã đi vào sử sách. Chỉ đến hiện nay nó mới bị lật tẩy bởi nhà địa lý học người Pháp Francois-Xavier Bonnet[57].

Những tên gọi của hòn đảo

Trong bài viết năm 1997 của mình, Sheng khẳng định chính quyền Trung Hoa Dân quốc “đã xem xét các tên gọi cho những hòn đảo trên biển Đông” năm 1932[58]. Thực tế uỷ ban chính phủ chỉ thông dịch hoặc chuyển ngữ những tên gọi Anh ngữ hoặc quốc tế có sẵn. Kết quả là những tên gọi tiếng Trung Quốc tiếp tục tôn vinh những nhà khảo thí người Anh đã vẽ nên hải đồ lần đầu tiên. Tại quần đảo Hoàng Sa, Líng yang Jiao (Linh Dương Tiêu) – Rạn Antelope (Đá Hải Sâm) – được đặt tên theo chiếc tàu khảo thí của Anh, tàu Antelope. Jīn yín Dǎo (Đảo Kim Ngân) – Đảo Money (Đảo Quang Ảnh) – không được đặt tên theo tiền giấy hay tiền xu – mà là theo William Taylor Money, người Quản đốc của đội tàu Bombay – hạm đội hải quân của công ty Đông Ấn.

Phản đối ngoại giao 1933?

Có một lập luận là mấu chốt trong tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên quần đảo Trường Sa chính là sự khẳng định lặp đi lặp lại rằng Trung Hoa Dân quốc đã chính thức phản đối Chính quyền Pháp sau khi Pháp sáp nhập một số thực thể tự nhiên trên quần đảo Trường Sa vào ngày 26/7/1933. Đúng là việc sáp nhập đã gây nên sự bức xúc trong chính quyền và kích động chủ nghĩa dân tộc trong công chúng. Nhưng có hay không một sự phản đối chính thức?

Tao Cheng, trong bài báo năm 1975[59], có viện dẫn một bài viết trong Tân Á Tế Á nguyệt san (Xin Ya Xi Ya Yue Kan [Hsin‐ya-hsi-ya yueh kan] (New Asia Monthly) hai năm sau đó, 1935.[60] Chiu và Park khẳng định trong một ghi chú rằng, “có bằng chứng rằng Trung Quốc cũng đã phản đối”. Họ viện dẫn một bài viết trong Ngoại giao Nguyệt báo (Wai-­chiao yüeh­‐pao [Diplomacy monthly]) viết bởi Cho Min[61], và một cuốn sách Nam hải chư đảo địa lý chí lược (Nan‐hai chu-tao ti-li chih-lūeh [General records on the geography of southern islands]) được xuất bản năm 1948 của Cheng Tzu-yüeh.[62]

Tuy nhiên, họ thừa nhận rằng, “Thời điểm hồ sơ của Trung Quốc không được đưa ra trong cuốn sách của Cheng, cũng như không được nhắc đến trong “Bản ghi nhớ Bốn quần đảo Lớn của Trung Hoa Dân quốc trên biển phía Nam”, phát hành bởi Bộ Ngoại giao Trung Hoa Dân quốc vào tháng 2/1974. Xem Liên hiệp báo (Lien-ho-pao [United daily news]), ấn bản hải ngoại, ngày 25/2/1974, trang 3.

Tuyên bố này xuất hiện trong bài thuyết trình của Đại sứ Freeman và trong nghiên cứu của Trung tâm Phân tích Hải quân Hoa Kỳ – công trình đã trích dẫn bài báo của Sheng. Trong bài viết năm 1997, Sheng đã trích dẫn hai nguồn: Cheng và Chiu và Park – nhưng như ta đã thấy – họ không cung cấp bất kỳ tài liệu nào cho khẳng định của mình. Trong bài viết năm 2002, Sheng viện dẫn các bài báo từ hội thảo của Vụ hải dương quốc gia.[63] Những bài báo này không thể tìm thấy ngoài Trung Quốc nhưng có bằng chứng xác thực rằng toàn bộ những bài viết này đều sai.

Francois-Xavier Bonnet đã phát hiện những ghi chép của người Mỹ cho thấy rằng ngay sau tuyên bố của Pháp, chính quyền Trung Quốc đã phải yêu cầu lãnh sự của mình tại Manila, ông Kuanling Kwong đòi chính quyền thực dân Mỹ tại đó một tấm bản đồ thể hiện vị trí của họ. Chỉ khi đó chính quyền tại Nam Kinh mới hiểu được rằng những hòn đảo đó không thuộc quần đảo Hoàng Sa và quyết định không đưa ra sự hình thức phản đối nào nữa.[64]

Theo Bonnet, lý do đã rất rõ rệt theo những biên bản cuộc gặp gỡ của Hội đồng Quân sự Cộng hoà Trung quốc vào ngày 1/9/1933, “Tất cả những chuyên gia địa lý của chúng ta khẳng định đảo Tri Tôn [thuộc Hoàng Sa] là hòn đảo cực nam của lãnh thổ chúng ta”[65]. Trung Hoa Dân quốc quyết định rằng không thể tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Trường Sa tại điểm này và vì vậy không cần phải phản đối.

Nghiên cứu của Chris Chung, một Nghiên cứu sinh người Canada, đã phát hiện ra rằng trước năm 1946, các hồ sơ của Trung Hoa Dân quốc đề cập đến sự phản đối chính thức của Trung Quốc năm 1933 như như thể đây là một sự thật. Việc này sau đó trở thành sự bào chữa của Trung Quốc để “đòi lại” các đảo từ Nhật Bản sau Thế Chiến thứ hai.[66]

Tóm lại, những sự việc có thể đã xảy ra đó là hơn 13 năm sau việc sáp nhập của Pháp, một sự diễn giải khác về những gì đã xảy ra trong năm 1933 đã hình thành trong quá trình cầm quyền Trung Hoa Dân quốc. Giả thuyết của tôi là chính quyền Trung Quốc đã lẫn lộn một cuộc phản đối thực sự với Pháp năm 1932 về hoạt động trên quần đảo Hoàng Sa với một cuộc phản đối không-tồn-tại năm 1933 về quần đảo Trường Sa.

Những khảo sát những năm 1930

Trong bài báo năm 2002 của mình, Sheng khẳng định Trung Hoa Dân quốc “đã tổ chức điều tra quy mô rộng với ba vòng và đổi tên các hoạt động lần lượt trong năm 1932, 1935 và 1947” (trang 107) nhưng không có cuộc điều tra nào tiến hành trên quần đảo Trường Sa. Việc đổi tên chỉ là sự sao chép từ các bản đồ quốc tế. Đây dường như là lý do khiến Trung Hoa Dân quốc dịch sai tên gọi của bãi cạn James – ban đầu được gọi là Zengmu Tan. Zeng-mu chỉ là sự chuyển ngữ của James. Tan có nghĩa là bãi cát, trong khi thực tế bãi cạn phải ở dưới nước. Với lỗi dịch thuật đơn giản này, một phần của đáy biển trở thành một hòn đảo và đến ngày nay được xem là phần cực nam của lãnh thổ Trung Quốc – thậm chí khi nó còn chẳng tồn tại! Những tên gọi được sửa đổi bởi Trung Hoa Dân Quốc vào năm 1947 (lúc mà Zengmu Tan trở thành Zengmu Ansha­- dải đá ngầm) và được lặp lại vào năm 1983.[67]

Tuyên bố Cairo

Một bản chụp Tuyên bố Cairo 1943 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ

Một bản chụp Tuyên bố Cairo 1943 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ

Sheng (2002, trang 139) và Xi và Tan (2014) ủng hộ lập luận của Bộ Ngoại giao Trung Quốc rằng trong Tuyên bố Cairo năm 1943[68], các đồng minh thời chiến đã trao trả các đảo trên Biển Đông cho Trung Quốc. Nghiên cứu của Trung tâm Phân tích Hải quân Hoà Kỳ đã thảo luận về tuyên bố này và dứt khoát bác bỏ lập luận trên với các lý lẽ sau:

“Tuyên bố Cairo, được củng cố bởi Tuyên bố Potsdam[69], chỉ quy định rằng Trung Quốc được phục hồi Mãn Châu, Formosa [Đài Loan], và quần đảo Pescadores sau chiến tranh. Câu tiếp theo chỉ quy định đơn thuần rằng Nhật Bản sẽ bị trục xuất khỏi “phần lãnh thổ khác” bị chiếm đóng bằng vũ lực, nhưng không chỉ ra rằng các “phần lãnh thổ khác” sẽ được trả lại cho Trung Quốc. Mặc dù không được tuyên bố rõ ràng, kết luận hợp lý duy nhất đó là những “phần thuộc địa khác” đã bao gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bị cưỡng chiếm bằng vũ lực từ tay Pháp, không phải từ Trung Quốc” (trang 97).

Tuy nhiên, Freeman (2015), lại tranh luận rằng, vì chính quyền Nhật Bản hợp nhất quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào tỉnh Đài Loan của họ, Tuyên bố Cairo trao trả chúng cùng với phần còn lại của “Tỉnh Đài Loan” cho Trung Quốc. Nhưng Tuyên bố trên không hề nhắc đến từ “Đài Loan”. Nó chỉ nói về Formosa và quần đảo Pescadores. Kết luận hợp lý là những đồng minh đồng ý rằng chỉ những đảo cụ thể trên được trả lại cho Trung Quốc.

Sự đầu hàng của Nhật trên quần đảo Hoàng Sa

Nghiên cứu của Trung tâm Phân tích Hải quân Hoa Kỳ và diễn văn của Đại sứ Freeman đều khẳng định rằng quân đội Nhật trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã đầu hàng lực lượng Trung Quốc lúc Thế Chiến thứ hai kết thúc. Freeman đã tranh luận rằng Hải quân Hoa Kỳ đã chuyên chở lực lượng Trung Quốc đến các đảo với mục đích trên. Trong cuộc tiếp xúc riêng với tác giả, ông đã không thể cung cấp bất kỳ chứng cứ xác thực nào cho khẳng định đó.

Dựa trên chứng cứ từ các tài liệu của quân đội Hoa Kỳ và Úc, tuyên bố trên dường như không xác thực. Trong suốt cuộc chiến, Nhật Bản có các căn cứ quân sự trên đảo Phú Lâm và Hoàng Sa thuộc quần đảo Hoàng Sa và đảo Itu Aba (đảo Ba Bình) thuộc Trường Sa. Đảo Phú Lâm được bao bọc bởi đội tàu ngầm USS Pargo vào ngày 6/2/1945[70] và vào ngày 8/3, phi cơ Hoa Kỳ đã đánh bom đảo này và đảo Hoàng Sa.[71] Khi một tàu ngầm khác, USS Cabrilla, đến đảo Phú Lâm vào ngày 2/7, cờ ba màu của Pháp đang tung bay nhưng lần này còn có một lá cờ trắng ở trên[72].

Đảo Ba Bình bị thả bom bởi máy bay Hoa Kỳ vào ngày 1/5/1945[73]. Sáu tháng sau, Hải quân Hoa Kỳ gửi một đoàn do thám đến đảo. Đoàn này đến nơi vào ngày 20/11/1945 và phát hiện rằng hòn đảo bị bỏ trống – người Nhật đã bỏ chạy[74].

Mãi cho đến hơn một năm sau đó – tháng 12/1946, một lực lượng đổ bộ Trung Quốc – sử dụng các tàu chiến cũ Hoa Kỳ chuyển nhượng cho Hải quân Trung Hoa Dân quốc – tiếp cận được hòn đảo[75]. (Người Pháp đã đến đây hai tháng trước đó và đòi lại hòn đảo[76] nhưng điều này hiếm khi được đề cập trong các tài liệu Trung Quốc). Tên gọi tiếng Trung của Itu Aba là Taiping Dao (Thái Bình đảo), đặt theo tên con tàu chiến chở đội đổ bộ. Taiping trước đó là USS Decker. Thật mỉa mai là nếu Hoa Kỳ không cung cấp những tàu chiến đó, Trung Quốc sẽ chẳng thể đòi chủ quyền với quần đảo Trường Sa hiện nay.

Kết luận:

Việc xem xét các chứng cứ xác thực cho thấy một lịch sử khác về các hòn đảo trên biển Đông so với những gì được tìm thấy trên hầu hết những tài liệu được dùng rộng rãi để viện dẫn. Sự quan tâm của chính quyền Trung Quốc đối với chúng chỉ xuất hiện từ thế kỷ 20. Chưa có bằng chứng nào được đưa ra về bất kỳ chuyến thăm chính thức nào của Trung Quốc đến quần đảo Hoàng Sa trước ngày 6/6/1909. Chỉ vào năm 1933 dư luận trong nước mới chú ý đến quần đảo Trường Sa – và thời điểm đó Trung Hoa Dân quốc quyết định không đưa ra tuyên bố nào. Sự chú ý lập tức được khơi lại sau Thế Chiến thứ hai, dựa trên những hiểu lầm về các sự kiện năm 1933 và lần đầu tiên có một cuộc đổ bộ chính thức của Trung Quốc lên quần đảo Trường Sa vào ngày 12/12/1956.

Vào năm 1933, 1956, 1974 và lại lần nữa trong hiện tại, lịch sử của những hòn đảo lại được viết đi viết lại. Trong mỗi cuộc khủng hoảng đó, những người ủng hộ vị thế của Trung Quốc lại tạo ra những phiên bản mới của lịch sử, thường tái lặp những sai lầm trước đó và đôi khi còn thêm vào những sai lầm mới của chính mình. Cho đến khi những nhận định trên vượt qua rào cản ngôn ngữ để tới thế giới Anh ngữ vào giữa những năm 1970, những nền tảng yếu ớt của chúng trở nên vững chắc đối với những người mới bắt đầu khám phá lịch sử. Chúng đã được in ấn trên các nhật báo học thuật phương Tây và “trở thành sự thật”. Nhưng việc xem xét lại nguồn đã cho thấy sự lỏng lẻo vốn dĩ của chúng.

Những người ủng hộ cho lập trường của Trung Quốc không thể dùng những lý lẽ của họ dựa trên những bằng chứng vô căn cứ nữa. Đã đến lúc nỗ lực phối hợp để tái khảo sát những nguồn sơ khởi của nhiều khẳng định được đưa ra bởi các tác giả và tái thẩm định tính chính xác của chúng. Giải pháp cho những tranh chấp phụ thuộc vào điều đó – cả trong phòng xử án của Tòa La Haye cũng như trên các vùng nước thuộc Biển Đông.

———————–

Tài liệu tham khảo:

[1] Thông cáo báo chí của PCA: http://www.pca-cpa.org/showfile.asp?fil_id=2910

[2] Thông báo và tuyên bố khởi kiện Trung Quốc của Philippines: http://www.dfa.gov.ph/index.php/component/docman/doc_download/56-notification-and-statement-of-claim-on-west-philippine-sea?Itemid=546

[3] Bản tuyên bố lập trường của Trung Quốc: http://www.fmprc.gov.cn/mfa_eng/zxxx_662805/t1217147.shtml

[4] Li Dexia, “Xisha (Paracel) Islands: Why China’s Sovereignty is ‘Indisputable’,” RSIS Commentary 116 ngày 20/6/2014:

http://www.rsis.edu.sg/wp-content/uploads/2014/07/CO14116.pdf

[5] Charles Freeman, “Diplomacy on the rocks,” Diễn văn tại một seminar tại Viện Nghiên cứu quốc tế Watson, Đại học Brown ngày 10 tháng 4 năm 2015:http://chasfreeman.net/diplomacy-on-the-rocks-china-and-other-claimants-in-the-south-china-sea/

Bài diễn văn này sau đó đã được trích dẫn lại trên tạp chí bình luận The Diplomat trong một bài báo với tựa đề: “Sự thật lịch sử của tranh chấp Biển Đông” (The Real History of South China Sea Disputes) của Shannon Tiezzi: http://thediplomat.com/2015/04/the-real-history-of-the-south-china-sea-disputes/

[6] Pete Pedrozo, “China versus Vietnam: An Analysis of the Competing Claims in the South China Sea,” Trung tâm phân tích Hải quân Hoa Kỳ, tháng 8/2014:https://seasresearch.wordpress.com/2014/08/19/china-versus-vietnam-an-analysis-of-the-competing-claims-in-the-south-china-sea-2/.

[7] Hungdah Chiu & Choon‐Ho Park, “Legal status of the Paracel and Spratly Islands,” Ocean Development & International Law 3(1) 1975: 1-28 (Một bản điện tử được lưu trữ tại Dự án Đại Sự Ký Biển Đông)

[8] Marwyn S. Samuels, “Contest for the South China Sea,” Methuen New York, 1982. (Một bản dịch tiếng Việt được lưu trữ tại Dự án Đại sự ký Biển Đông)

[9] Greg Austin, “China’s Ocean Frontier: International Law, Military Force, and National Development,” Allen & Unwin, 1998

[10] Jianming Shen, “International Law Rules and Historical Evidence Supporting China’s Title to the South China Sea Islands,” 21 Hastings International and Comparative Law Review (1997-1998): 1‐75 (Một bản điện tử được lưu trữ tại Dự án Đại Sự Ký Biển Đông)

[11] Jianming Shen, “China’s Sovereignty over the South China Sea Islands: A Historical Perspective,” Chinese Journal of International Law (2002):http://chinesejil.oxfordjournals.org/content/1/1/94.full.pdf

[12] Brian K. Murphy, “Dangerous Ground: the Spratly Islands and International Law,” Ocean and Coastal Law Journal (1994): 187–212

[13] Chi-kin Lo, “China’s Policy Towards Territorial Disputes: The Case of the South China Sea Islands,” Routledge (1989)

[14] Đã dẫn: trang 16

[15] Đã dẫn, xem chú thích 7: trang ii

[16] Cheng Huan, “A Matter of Legality,” Far Eastern Economic Review, 25/2/1974: 25-28

[17] Đã dẫn, xem chú thích 13

[18] Tao Cheng khi đó là một giáo sư lĩnh vực Khoa học Chính trị tại Trenton State College

[19] Tao Cheng, “Dispute over the South China Sea Islands,” Texas International Law Journal (1975) vol. 10: 265 (Một bản điện tử được lưu trữ tại Dự án Đại Sự Ký Biển Đông)

[20] Đã dẫn, xem chú thích 7

[21] Dieter Heinzig, “Disputed islands in the South China Sea: Paracels, Spratlys, Pratas, Macclesfield Bank” Institut für Asienkunde (Hamburg) 1976

[22] Đã dẫn, xem chú thích 19

[23] Đã dẫn, xem chú thích 19. Đáng chú ý, Cheng đã sử dụng những nguồn này để phân tích cơ sở pháp lý của yêu sách các bên. Xem trang 265. Nguyên văn: “Materials bearing on these questions are substantial, but mostly in Chinese. With respect to basic facts and the various claims before World War 11, however, the following writings are very informative: THE HYDROGRAPHIC OFFICE, U.S. DEPARTMENT op THE NAVY, 4 Asunc PILOT (2nd ed. 1925) [here in after cited as ASIATIC PILOT]; Saix, Iles Paracels, LA GEOGRAPHIE (Nov.-Dec. 1933), reprinted in 3 WAI CHIAO PING LuN (Foreign Affairs Review), No. 5 (Hu Huan-Yung Chinese transl. May 1934), at 65-72; Hu, Fa-jen Mou-tuo Hsi-Sha Ch’iin-tao [The French Plot to Snatch the Paracel Islands], 3 WAI CHIAO PING LUN (Foreign Affairs Review), No. 4 (April 1934), at 9199; T. CHENG, Nan-hai chu-tao ti-li chih-lueh (Geography of the South China Sea Islands) (1947). Mr. Cheng was a member of the Chinese delegation to accept the surrender of Japanese forces in the South China Sea area. On the disputes over the two island groups since the end of World War 11, see Huang, Wo-kuo Ti Hal-chaing Chi Ta-lu Chiao-tseng Wen-ti [The Problems of Our Country’s Coastal Frontiers and Continental Shelf], 7 MING PAO MONTHLY (Hong Kong) 2-18 (1972); Teng, Nan Chung Kuo Hai Chu Tao Yii Ti Chu Chuan Wen Ti [The Problem of Sovereignty Over the South China Sea Islands], 9 MING PAO MONTHLY (Hong Kong) 2-8 (1974).

[24] Saix, Iles Paracels, LA GEOGRAPHIE (Nov.-Dec. 1933), reprinted in 3 WAI CHIAO PING LUN (Foreign Affairs Review), No. 5 (Hu Huan-Yung Chinese transl. May 1934), at 65-72

[25] Đã dẫn, xem chú thích 7

[26] Đã dẫn, xem chú thích 21

[27] Một bản chụp của Thất thập niên đại và Minh báo nguyệt san được lưu trữ tại Dự án Đại Sự Ký Biển Đông

[28] Journal Officiel de la République Française 25/7/1933: tr. 7794 (Một bản chụp điện tử được lưu trữ tại Dự án Đại Sự Ký Biển Đông)

[29] Như một ví dụ, tờ Thân báo (Shen Bao) viết: Quần đảo Trường Sa đã luôn là nơi cư ngụ duy nhất của ngư dân Trung Quốc, và đã được cộng đồng quốc tế công nhận đây là lãnh thổ của Trung Quốc. Chúng tôi đã bị sốc khi nhận được tuyên bố của Pháp chiếm đóng chính thức quần đảo này… Bộ Ngoại giao (Trung Quốc – BTV)… sẽ có tuyên bố phản đối mạnh mẽ hành động này của Pháp.” Xem chú thích 8: tr. 18, chú thích 12: tr. 143, chú thích 13: tr. 191 & 203.

Hay tạp chí Quân đội Trung Hoa viết: “… Bất kể lập trường của Pháp và Nhật ra sao đối với quần đảo này, Trung Quốc cần phải có một thái độ dứt khoát: Chín đảo này thuộc quyền tài phán của Trung Quốc. Bất kể chúng lớn hay nhỏ, chúng ta không thể chấp nhận việc chúng bị sát nhập vào quốc gia khác. Chúng ta không thể cho phép họ chiếm đóng những hòn đảo này nếu không chúng ta cũng sẽ mất nốt quần đảo Hoàng Sa.” Nguồn: Hsi-chun Tsa-chila (Navy Journal) 10/1933: p.1-4. Trích dẫn trong François-Xavier Bonnet, Geopolitics of Scarborough Shoal. Discussion Paper #14. IRASEC (Research Institute on Contemporary Southeast Asia), Bangkok. 2012: http://www.irasec.com/download.php?type=document&id=40

[30] “Freedomland” Goverment States position on Imbroglia Over island” (Đất tự do: Chính phủ nêu rõ quan điểm về tình trạng phức tạp ở các đảo), New Philippines, Manila số tháng 2/1974 trang 7. Trích dẫn trong Nguyễn Việt Long, “Hoàng Sa, Trường Sa – Các sự kiện, tư liệu lịch sử pháp lý chính,” Tập 1 (Thế kỷ XV-2000) (Bản thảo, 2013, được lưu trữ tại Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.)

[31] Chris P.C. Chung, “Since Time Immemorial”: China’s Historical Claim in the South China Sea. MA Thesis, University of Calgary, September 2013:http://theses.ucalgary.ca/bitstream/11023/955/6/ucalgary_2013_chung_chris.pdf

[32] Daniel J. Dzurek, “The Spratly Islands Dispute: Who’s on First?”, Maritime Briefings Vol. 2(1), 1996: https://www.dur.ac.uk/ibru/publications/view/?id=232

[33] Đã dẫn, xem chú thích 9

[34] PRC Ministry of Foreign Affairs, China’s indisputable sovereignty over the Xisha and Nansha islands, Beijing Review Quyển. 23 Số.7 1980 trang 15-24. (Một bản điện tử lưu trữ tại Dự án Đại Sự Ký Biển Đông)

[35] Lin Jinzhi, Renmin Ribao (Nhân dân Nhật báo) 07/04/1980. FBIS-PRC-80-085 30/04/1980 p.E6 28 Duanmu Zheng ed. Guoji Fa (International Law), Nxb. Peking University, Bắc Kinh, 1989

[36] Đã dẫn, xem chú thích 10

[37] Đã dẫn, xem chú thích 11

[38] Đã dẫn, xem chú thích 6

[39] Duanmu không phải là đảng viên Đảng Cộng sản mà là đảng viên Liên đoàn dân chủ Trung Hoa (China Democratic League). Colin Mackerras, The New Cambridge Handbook of Contemporary China. Nxb. Cambridge University, 2001, trang 85.

[40] Đã dẫn, xem chú thích 19: trang 277

[41] Đã dẫn, xem chú thích 7: trang 20

[42] Đã dẫn, xem chú thích 10

[43] Đã dẫn, xem chú thích 11

[44] Đã dẫn, xem chú thích 4

[45] François-Xavier Bonnet, Geopolitics of Scarborough Shoal. Discussion Paper #14. IRASEC (Research Institute on Contemporary Southeast Asia), Bangkok. 2012: http://www.irasec.com/download.php?type=document&id=40

[46] Ulises Granados, As China Meets the Southern Sea Frontier: Ocean Identity in the Making, 1902-1937. Pacific Affairs Quyển. 78, Số. 3, (2005), trang 443-461

[47] Stein Tonnesson, “The South China Sea in the Age of European Decline,” Modern Asian Studies. Quyển 40, Issue 01. 2006, trang 1-57 và “An International History of the Dispute in the South China Sea,” East Asia Institute Working Paper Số. 71 (2001) (Một bản điện tử được lưu trữ tại Dự án Đại Sự Ký Biển Đông)

[48] “Chinese foreign relations”, The Times 18/01/1908: trang. 5; “The recent piracy in Canton waters,” The Times 25/01/1908: trang 5

[49] TheExaminer, (Launceston, Tasmania) “China and her islands-keeping an eye on foreign nations”, 12/06/1909, trang 8

[50] Đã dẫn, xem chú thích 46

[51] Ngoại giao nguyệt san, 1933. Điều này được tiết lộ bởi Chính quyền tỉnh Quảng Đông năm 1933. Xem Cho Min, “The Triangular Relationship Among China, France and Japan and the Question of Nine Islands in South Sea,” Ngoại giao nguyệt san, Quyển 3, số. 3 (Peiping [Bắc Kinh], 15/09/1933); trang 82, điều 4

[52] Cục Thủy văn, Bộ Hải quân, The China Sea Directory, Quyển. 2, London, 1889, trang 103. Trích trong Bonnet 2012: xem chú thích 65. Xem thêm: David Hancox và Victor Prescott, “A Geographical Description of the Spratly Islands and an Account of Hydrographic Surveys Amongst Those Islands,” Maritime Briefing, Quyển 1, Số 6, International Boundaries Research Unit, Đại học Durham, 1995, trang 36: https://www.dur.ac.uk/ibru/publications/view/?id=229

[53] Một bản số hoá nội dung hiệp định được lưu trữ tại Dự án Đại Sự Ký Biển Đông

[54] Saix, Iles Paracels, La Geographie (Tháng 11.-12/1933), in lại trong Wai Chiao Ping Lun (Foreign Affairs Review), Số 5 (Hu Huan-Yung dịch sang tiếng Trung Quốc tháng 5/1934), trang 65-72;, trang 67; Hu, Fa-jen Mou-tuo Hsi-Sha Ch’ün-tao [The French Plot to Snatch the Paracel Islands], 3 Wai Chiao Ping Lun (Foreign Affairs Review), Số 4 (Tháng 04/1934), trang 92.

[55] Quốc văn chu san, 1933, “On Li Chun’s Patrol of the Sea”, Quyển. 10, số 33, trang 6. (Một bản điện tử lưu trữ tại Dự án Đại Sự Ký Biển Đông).

[56] Ủy ban tỉnh Quảng Đông, “Bộ sưu tập tài liệu tên các đảo ở Biển Đông, Nxb. Guangdong Map, 1987,trang 289. (Một bản chụp trang sách và một bản dịch tiếng Anh được lưu trữ tại Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.)

[57] Francois-Xavier Bonnet, Tham luận được trình bày tại Hội thảo Biển Đông Nam Á, Ateneo Law Center, Makati, Manila. 27/03/2015:

https://seasresearch.wordpress.com/2015/04/20/archeology-and-patriotism-long-term-chinese-strategies-in-the-south-china-sea/

[58] Đã dẫn, xem chú thích 10

[59] Đã dẫn, xem chú thích 19

[60] [A Brief Note on the Paracel Islands], 9 Hsin Ya Hsi Ya Yueh Kan No. 6 (Tháng 06/ 1935), trang 0-54

[61] Cho Min, “The Triangular Relationship Among China, France and Japan and the Question of Nine Islands in South Sea,” Ngoại giao nguyệt san, Quyển 3, số 3, Peiping [Peking], 15/09/1933, trang 78;

[62] “General records on the geography of southern islands,” Shanghai, 1948, trang 80

[63] Đã dẫn, xem trích dẫn 11: trích dẫn số 160.

[64] Đã dẫn, xem chú thích 57

[65] Bộ sưu tập các ghi chép liên quan đến các đảo ở Nam hải của Bộ Ngoại giao, Quyển 1, Taipeh, 1995, trang 47-49. Trích trong FrançoisXavier Bonnet (2012): xem chú thích 57

[66] Xem Bộ Ngoại giao, “Spratly Archipelago,” The Historical Archives of the Department of Modern History in the Academia Sinica, hồ sơ 019.3/0012, hồ sơ 031. Bức điện chính thức của Cộng hòa Trung Hoa được công bố ngày 24/08/1946 và Bộ Ngoại giao, “Spratly Archipelago”,” The Historical Archives of the Department of Modern History in the Academia Sinica hồ sơ 019.3/0012, hồ sơ 145-146. Bức điện chính thức này của Cộng hòa Trung Hoa cũng được công bố năm 1946. Tuy nhiên không xác định rõ tháng.

[67] Chen Keqin, 1996, “China’s south sea islands,” NXB Hainan International và Publication Center, Haikou

[68] Một bản chụp tuyên bố Cairo 1943 của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ được lưu trữ tại Dự án Đại Sự Ký Biển Đông

[69] Toàn văn tuyên bố Postdam 1945: http://www.ndl.go.jp/constitution/e/etc/c06.html

[70] A.B. Feuer, “Australian Commandos: Their Secret War against the Japanese in World War II” (Mechanicsburg, Pennsylvania, 2006), Chương 6.

[71] US Navy Patrol Bombing Squadron 117 (VPB–117), Aircraft Action Report No. 92, xem tại http://www.fold3.com/image/302109453/

[72] US Navy, USS Cabrilla Report of 8th War Patrol, xem tại http://www.fold3.com/ image/#300365402

[73] United States Pacific Fleet, Patrol Bombing Squadron 128. Action report 3 May 1945. Trích dẫn trong Bill Hayton, “Calm and Storm: The South China Sea after the Second World War” AMTI 13/8/2015: http://amti.csis.org/calm-and-storm-the-south-china-sea-after-the-second-world-war/

[74] World War II War Diaries USS Sea Fox http://www.fold3.com/image/#301745082; USS CABEZON http://www.fold3.com/image/#301980652; USS BUGARAhttp://www.fold3.com/image/#302085830

[75] Bill Hayton, “Calm and Storm: The South China Sea after the Second World War” AMTI 13/8/2015: http://amti.csis.org/calm-and-storm-the-south-china-sea-after-the-second-world-war/

[76] Stein Tønnesson, “The South China Sea in the Age of European Decline,” Modern Asian Studies 40, 1 (2006) pp. 1-57 (Một bản điện tử được lưu trữ tại Dự án Đại Sự Ký Biển Đông)

—————

Về tác giả: Cựu phóng viên BBC Bill Hayton là tác giả cuốn sách “BIỂN ĐÔNG: CUỘC TRANH GIÀNH QUYỀN LỰC Ở CHÂU Á” (The South China Sea: The struggle for power in Asia).

Người biên dịch: Bùi Thạch Hồng Hưng đến từ Trung tâm nghiên cứu quốc tế, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh

Người hiệu đính: Minh Trang là cộng tác viên Dự án Đại Sự Ký Biển Đông

Nguồn: Dự án Đại Sự Ký Biển Đông

BTV: Phần tài liệu tham khảo được chuẩn bị dựa trên phần chú thích ban đầu của tác giả và trong quá trình kiểm chứng các sự kiện trong bài viết, với thông tin cũng như đường dẫn tới hay nơi lưu trữ các tư liệu liên quan.

Mọi câu hỏi xin liên hệ tại địa chỉ sukybiendong@gmail.com

Advertisement
Bài này đã được đăng trong Chủ quyền biển đảo. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s